Làng nghề CBG trong bối cảnh thực thi FLEGT và REDD+ tại Việt Nam

12/06/2015 06:12
Làng nghề CBG trong bối cảnh thực thi FLEGT và REDD+  tại Việt Nam

Việt Nam hiện nay có khoảng trên 300 làng nghề chế biến gỗ, với khoảng gần 50% trong số này tập trung tại vùng Đồng bằng Sông Hồng. Hàng năm lượng gỗ nguyên liệu sử dụng cho các làng nghề gỗ trong cả nước ước khoảng 350.000 - 400.000 m3 gỗ quy tròn được nhập khẩu từ nước ngoài và khai thác trong nước

Báo cáo "Làng nghề chế biến gỗ trong bối cảnh thực thi FLEGT và REDD+ tại Việt Nam” được hoàn thành với sự trợ giúp về tài chính của tổ chức Forest Trends. Nhóm tác giả xin cảm ơn ông Đặng Việt Quang đã góp ý cho báo cáo và giúp thể hiện số liệu. Các quan điểm được thể hiện trong báo cáo không phản ánh quan điểm chính thống của tổ chức Forest Trends.

Việt Nam hiện nay có khoảng trên 300 làng nghề chế biến gỗ, với khoảng gần 50% trong số này tập trung tại vùng Đồng bằng Sông Hồng. Hàng năm lượng gỗ nguyên liệu sử dụng cho các làng nghề gỗ trong cả nước ước khoảng 350.000 - 400.000 m3 gỗ quy tròn được nhập khẩu từ nước ngoài và khai thác trong nước. Làng nghề gỗ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện có khoảng 300.000 lao động đang làm việc tại các làng nghề.

Hàng năm số lượng làng nghề gỗ tăng khoảng 5%, điều này tạo cơ hội việc làm cho nhiều người lao động tại vùng nông thôn. Hàng năm, tổng doanh thu từ các làng nghề gỗ đạt khoảng 1,5 tỉ đô la, trong đó giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ chiếm trên 13%. Các làng nghề hiện nay cung cấp trên 80% đồ gỗ nội thất và đồ gỗ xây dựng cho thị trường nội địa (HRPC, 2009).

 Đa số các làng nghề gỗ hiện nay có quy mô nhỏ, chủ yếu là hình thức hộ gia đình, với khoảng 8-15 lao động, chủ yếu là lao động phổ thông. Chủ cơ sơ sản xuất và người làm thuê không ràng buộc với nhau bởi hợp đồng lao động, mà thường dựa trên các thỏa thuận miệng được thống nhất giữa 2 bên. Nguồn vốn sản xuất của hộ thường nhỏ, khoảng dưới 10 tỉ đồng/hộ/năm. Quy mô hộ gia đình tạo ra sự linh động trong tổ chức sản xuất kinh doanh, điều này tạo động lực thúc đẩy làng nghề phát triển.

Khác với ngành công nghiệp gỗ xuất khẩu có sử dụng công nghệ tiên tiến nhằm tiết kiệm nguyên liệu đầu vào và tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm, nhiều làng nghề gỗ chủ yếu sử dụng công nghệ thô sơ, điều này gây lãng phí về nguyên liệu và hạn chế về chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, một số làng nghề gỗ truyền thống sử dụng lao động tay nghề cao, tạo ra sản phẩm độc đáo có giá trị cao, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

 Cục Chế biến, Thương mại Nông lâm sản và Nghề muối thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước về làng nghề gỗ, thông qua việc soạn thảo nhằm ban hành các cơ chế chính sách quản lý, hỗ trợ phát triển làng nghề. Bộ Công thương có trách nhiệm quản lý thị trường sản phẩm thông qua các cơ chế chính sách hỗ trợ và phát triển thị trường. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hỗ trợ đào tạo nghề. Tuy nhiên, việc quản lý làng nghề nói chung và làng nghề gỗ nói riêng còn tồn tại một số bất cập, đặc biệt là chưa có sự phối hợp thống nhất trong quản lý giữa các cơ quan này. Bên cạnh đó, việc giám sát sự tuân thủ các quy định pháp luật tại các làng nghề còn lỏng lẻo. Hầu hết các hộ gia đình không tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp như các Hiệp hội ngành hàng, điều này dẫn đến sự phát triển tự phát của các làng nghề. Nói cách khác, các làng nghề tự vận hành và chạy theo nhu cầu thị trường mà chưa tiếp cận được với nguồn thông tin thị trường, định hướng phát triển thị trường sản phẩm.

Việc phát triển tự phát của nhiều làng nghề làm nảy sinh một số hạn chế. Tại nhiều làng nghề, hầu hết các hộ và các công ty tham gia sản xuất kinh doanh chưa quan tâm đến nguồn gốc và tính pháp lý của nguồn gỗ nguyên liệu. Điều này có thể tạo cơ hội cho việc tiêu thụ gỗ có nguồn gốc không minh bạch trong đó bao gồm gỗ khai thác bất hợp pháp. Một số làng nghề có sử dụng một số lượng lớn gỗ tự nhiên thuộc nhóm IA và IIA, là các nhóm gỗ mà Nhà nước hạn chế sử dụng vì mục đích thương mại. Bên cạnh đó, việc tuân thủ các quy định về môi trường, điều kiện an toàn lao động, sử dụng lao động của các làng nghề còn rất hạn chế.

 Việt Nam đang tham gia đàm phán với EU về Hiệp định Đối tác Tự nguyện trong khuôn khổ của Chương trình Thực thi Luật lâm nghiệp, Quản trị rừng và Thương mại gỗ (FLEGT). Đồng thời Việt Nam cũng đang tham gia sáng kiến Giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng (REDD+). Cả 2 Sáng kiến này đều có mục đích nhằm hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, góp phần quản lý rừng bền vững. Hàng năm, các làng nghề gỗ sử dụng một lượng gỗ nguyên liệu đáng kể, do vậy việc sản xuất kinh doanh và phát triển của làng nghề gỗ trong tương lai có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các sáng kiến này tại Việt Nam. Đến nay, các làng nghề gỗ chưa tiếp cận được thông tin có liên quan đến tiến trình thực hiện các sáng kiến FLEGT và REDD+. Báo cáo này dựa trên điều tra thực địa về tình hình sản xuất kinh doanh của một số làng nghề gỗ chỉ ra rằng các làng nghề gỗ hiện nay chưa sẵn sàng cho việc thực hiện FLEGT tại Việt Nam nếu việc thực hiện FLEGT đòi hỏi một quy trình kiểm tra gắt gao về tính hợp pháp của nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào. Nói cách khác, việc thực hiện FLEGT và cả REDD+ nhằm đưa ra các chế tài quản lý nguồn nguyên liệu đầu vào hợp pháp sẽ có thể làm ảnh hưởng tiêu cực đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề. Điều này đòi hỏi tiến trình thực hiện FLEGT and REDD+ cần có sự tham vấn đầy đủ và kịp thời đối với các làng nghề về các nội dung và tiến trình thực hiện các Sáng kiến này.  

Để đọc báo cáo chi tiết vui lòng liên hệ

Tạp chí Gỗ Việt

Số 189 Thanh Nhàn - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

Email:info@goviet.org.vn