Những điểm mới trong Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam kể từ tháng 11/2024

Dự án “Hỗ trợ thực hiện Hiệp định đối tác tự nguyện VPA/FLEGT tại Việt Nam” do GIZ và Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp thực hiện vừa công bố Báo cáo Những điểm mới trong Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam kể từ tháng 11/2024.
Nhiều điểm mới của Nghị định 120
Về quản lý gỗ nhập khẩu
Điều chỉnh thời hạn công bố danh mục các loài gỗ đã nhập khẩu vào Việt Nam từ 06 tháng thành 01 năm, định kỳ công bố trước ngày 31/12 hằng năm. Bổ sung trường hợp một quốc gia, vùng lãnh thổ không thuộc vùng địa lý tích cực khi quốc gia, vùng lãnh thủ đáp ứng tiêu chí quy định tại Khoản 1 Điều 5 nhưng có bằng chứng khai thác, buôn bán gỗ bất hợp pháp hoặc sử dụng tài liệu giả mạo theo quy định pháp luật của các quốc gia liên quan.
Gộp các Mẫu số 01 (Bảng kê gỗ nhập khẩu), Mẫu số 02 (Bảng kê sản phẩm gỗ nhập khẩu) và Mẫu số 03 (Bảng kê khai nguồn gốc gỗ nhập khẩu) Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 102 thành Mẫu số 01 (Bảng kê gỗ nhập khẩu) Phụ lục
I ban hành kèm theo Nghị định 120, trong đó: Bổ sung quy định kê khai thông tin quốc gia, vùng lãnh thổ xuất khẩu (Mục 11); Bổ sung quy định sản phẩm gỗ hỗn hợp có chứa loài rủi ro thì kê khai thông tin như đối với loài rủi ro; Bổ sung quy định kê khai thông tin về quốc gia, vùng lãnh thổ nơi khai thác (Mục 12 và Mục 13). Bổ sung quy định kê khai Mục D trong Mẫu số 01 đối với gỗ không thuộc loài rủi ro và gỗ từ vùng địa lý tích cực và gỗ thuộc loài rủi ro hoặc gỗ từ vùng địa lý không tích cực, nhằm tăng cường thực hiện trách nhiệm giải trình của tất
cả doanh nghiệp nhập khẩu gỗ.
Trường hợp chủ gỗ xuất trình hồ sơ gỗ nhập khẩu bằng bản giấy, sau khi thực hiện xong thủ tục hải quan, cơ quan hải quan trả lại hồ sơ nhập khẩu cho chủ gỗ để lưu giữ theo quy định phục vụ việc kiểm tra, truy xuất nguồn gốc gỗ của các cơ quan chức năng khi cần thiết.
Về quản lý gỗ xuất khẩu
Điều chỉnh đối tượng xác nhận nguồn gốc gỗ trước khi xuất khẩu theo hướng không phân biệt thị trường. Theo đó, bỏ quy định "lô hàng gỗ có nguồn gỗ từ rừng trồng trong nước xuất khẩu sang thị trường ngoài EU thì không cần các nhận".
Trường hợp chủ gỗ xuất trình hồ sơ gỗ xuất khẩu bằng bản giấy, sau khi thực hiện xong thủ tục hải quan, cơ quan hải quan trả lại hồ sơ gỗ xuất khẩu cho chủ gỗ để lưu giữ theo quy định phục vụ việc kiểm tra, truy xuất nguồn gốc gỗ của các cơ quan chức năng khi cần thiết.
Về hệ thống phân loại doanh nghiệp
Bổ sung đối tượng phân loại doanh nghiệp gồm: doanh nghiệp trồng, khai thác và cung cấp gỗ rừng trồng, chế biến, nhập khẩu, xuất khẩu gỗ. Thay đổi thời gian phân loại các lần tiếp theo đối với doanh nghiệp Nhóm I là 02 năm một lần.
Bổ sung các trường hợp chuyển loại doanh nghiệp từ doanh nghiệp Nhóm I sang doanh nghiệp Nhóm II: Doanh nghiệp không thực hiện kê khai hồ sơ phân loại lại trước 30 ngày tính đến ngày hết hạn công nhận doanh nghiệp Nhóm I; Doanh nghiệp đang được phân loại là doanh nghiệp Nhóm I nhưng có bằng chứng chứng minh không tuân thủ các tiêu chí phân loại.
Sửa đổi, bổ sung khái niệm gỗ hợp pháp. Bỏ gỗ sau xử lý tịch thu ra khỏi khái niệm gỗ hợp pháp. Điều này có nghĩa là gỗ sau xử lý tịch thu không được đưa
vào sử dụng vì mục đích thương mại. Hiện nay, gỗ tịch thu được điều chỉnh bởi Nghị định số 29/2018/NĐ-CP ngày 5/3/2018 của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.
Bổ sung vào khái niệm gỗ hợp pháp quy định về tuân thủ pháp luật có liên quan của quốc gia, vùng lãnh thổ nơi khai thác gỗ, trung chuyển và xuất khẩu gỗ vào Việt Nam.
Thay cụm từ “loại gỗ” bằng cụm từ “loài gỗ” nhằm đảm bảo tính rõ ràng về từ ngữ và giải quyết những bất cập xảy ra trong quá trình thực hiện Nghị định 102.
Về cấp phép FLEGT
Bỏ quy định về cấp phép FLEGT đối với lô hàng gỗ tạm nhập, tái xuất và gỗ sau xử lý tịch thu. Điều này có nghĩa rằng lô hàng gỗ tạm nhập, tái xuất và gỗ sau xử lý tịch thu không thuộc đối tượng cấp giấy phép FLEGT.
Thách thức đối với các bên và khuyến nghị được đưa ra
Báo cáo cũng chỉ ra các thách thức đối với các bên liên quan. Theo đó, với cơ quan kiểm lâm, do sự tham gia của nhiều bên trong chuỗi cung ứng phức tạp, chẳng hạn như chủ rừng, đơn vị sản xuất, chế biến, vận chuyển, thương mại, nhập khẩu, xuất khẩu, ảnh hưởng đến truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp.
Nguồn gỗ nhập khẩu ngày càng nhiều và đa dạng với chuỗi cung ứng gỗ đi qua nhiều quốc gia. Tuy nhiên, một số gỗ có nguồn gốc không rõ ràng, thiếu giấy tờ chứng nhận hợp pháp. Điều này gây khó khăn cho các lực lượng kiểm tra và giám sát liên quan; Hệ thống tổ chức cơ quan kiểm lâm còn chưa thống nhất. Chưa phân định rõ về nhiệm vụ và quyền hạn của kiểm lâm cấp tỉnh và kiểm lâm cấp huyện;…
Trong khi đó, đối với doanh nghiệp xuất khẩu, khó thu thập đầy đủ chứng từ cũng như xác định, trách nhiệm chứng minh nguồn gốc hợp pháp của gỗ nhập khẩu và gỗ trong nước. Các bên liên quan có thể chịu rủi ro pháp lý, bị xử lý vi phạm liên quan đến gỗ bất hợp pháp trong chuỗi cung ứng dài và phức tạp, gây ảnh hưởng đến uy tín và thiệt hại về tài chính.
Chi phí cao để tuân thủ, duy trì, cập nhật và củng cố hệ thống truy xuất nguồn gốc và trách nhiệm giải trình. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể mất các cơ hội kinh doanh và thị trường nều không kịp thời cập nhật, hiểu biết và tuân thủ các quy định mới.
Báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị. Theo đó, cơ quan kiểm lâm và hải quan sửa đổi, bổ sung Thông tư số 21/2021/TT-BNNPTNT về phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ với các tiêu chí cho các loại hình doanh nghiệp mới phù hợp với những thay đổi về mặt pháp lý của các ngành liên quan và các thủ tục hành chính cập nhật.
Liên kết hệ thống phân loại doanh nghiệp với hệ thống quản lý rủi ro của hải quan đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ. Định kỳ cập nhật và công bố các danh sách về các loài gỗ rủi ro, các vùng địa lý tích cực và các hệ thống chứng chỉ được công nhận.
Cung cấp tài liệu và chia sẻ kiến thức chuyên môn với các cơ quan hải quan cửa khẩu trong việc kiểm tra tính đầy đủ và chính xác của các thông tin khai báo nhằm đảm bảo trách nhiệm giải trình. Kịp thời triển khai các quy định về xác minh xuất khẩu và cấp phép FLEGT.
Các doanh nghiệp ngành gỗ cũng cần xây dựng hệ thống trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp, tăng cường quản lý, giám sát các nhà cung cấp, thu thập các tài liệu chứng minh nguồn gốc hợp pháp và đảm bảo tính minh bạch trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Gia tăng đầu tư vào công nghệ thông tin. Tăng cường các hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức và năng lực thực hiện trách nhiệm giải trình và lưu trữ kết quả thực hiện trách nhiệm giải trình trong bảng kê gỗ nhập khẩu.
Về phía các hiệp hội ngành gỗ cần nâng cao khả năng hỗ trợ cho các hệ thống quản lý dòng gỗ tại các cơ sở chế biến để đảm bảo khả năng truy xuất nguồn gốc đáng tin cậy. Tăng cường vai trò của các hiệp hội trong tư vấn và đào tạo doanh nghiệp tuân thủ và thích ứng với các quy định và tiêu chuẩn mới trong nước và quốc tế về hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp; đóng vai trò là cầu nối để đưa khó khăn, thách thức và phản hồi của doanh nghiệp đến những người hoạch định chính sách và ra quyết định.
Gỗ Việt
- Xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2024 và nhận định xu hướng năm 2025
- Bản tin thị trường gỗ Hoa Kỳ
- Hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ năm 2024
- Hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ 9 tháng năm 2024
- Việt Nam xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm 2024 và cập nhật một số chính sách quan trọng
- Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ vùng địa lý tích cực và không tích cực
- Hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ năm 2023
- Xuất nhập khẩu ngành gỗ năm 2023 và xu hướng năm 2024
- Ngành Gỗ Việt Nam 10 tháng đầu năm 2023
- Hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ
-
Bộ Công Thương đề nghị tăng cường quản lý nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hoàng hóa xuất khẩu
-
Mỹ áp thuế 46% với Việt Nam: Doanh nghiệp ngành gỗ nắm lấy “khe cửa hẹp”
-
Tăng sự hiện diện gỗ bền vững Canada tại Việt Nam
-
Triển lãm Global Sourcing Fair Việt Nam 2025
-
Sắp diễn ra Diễn đàn Lâm nghiệp năm 2025