Việt Nam xuất nhập khẩu gỗ 2018: Một năm nhìn lại và xu hướng 2019

23/02/2019 15:16
Việt Nam xuất nhập khẩu gỗ 2018: Một năm nhìn lại và xu hướng 2019

Báo cáo cung cấp các thông tin về thực trạng xuất nhập khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam nhằm phác họa bức tranh vĩ mô về các hoạt động này trong năm 2018. Báo cáo chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu, rủi ro và cơ hội trong bối cảnh ngành đang hội nhập sâu, toàn diện với thị trường quốc tế đánh giá một số xu hướng trong các hoạt động xuất nhập khẩu của ngành trong thời gian tới, đồng thời đưa ra kiến nghị một số thay đổi của ngành, nhằm góp phần thúc đẩy ngành phát triển theo hướng bền vững.

Báo cáo Việt Nam xuất nhập khẩu gỗ năm 2018: Một năm nhìn lại và xu hướng 2019, một sản phẩm hợp tác nghiên cứu giữa các hiệp hội gỗ và Tổ chức Forest Trends đưa ra những thông điệp chính như sau:

Thông điệp 1. Kim ngạch xuất khẩu cao, tăng trưởng ở mức 2 con số, điều này thể hiện động lực phát triển mạnh mẽ của ngành.

Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam đạt 8,476 tỉ USD, tăng 14,5% (tương đương 1,07 tỉ USD) so với kim ngạch năm 2017. Ba nhóm mặt hàng có tốc độ tăng trưởng lớn nhất bao gồm viên nén, dăm gỗ và gỗ dán/gỗ ghép. Năm 2018, giá trị xuất khẩu viên nén tăng gần 2 lần, dăm gỗ tăng 1,2 lần, gỗ dán/gỗ ghép tăng 1,7 lần. Kim ngạch của 3 nhóm mặt hàng này năm 2018 cao hơn 741,9 triệu USD so với kim ngạch của năm 2017, chiếm 69% trong con số tăng trưởng trong xuất khẩu của tất cả các mặt hàng năm 2018.

Thông điệp 2. Ngành gỗ đang có những bước chuyển dịch tích cực ở khâu nguyên liệu đầu vào. Cụ thể, nhập khẩu gỗ nguyên liệu ‘sạch’ tăng, gỗ có nguồn gốc rủi ro giảm.

Tổng kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng gỗ vào Việt Nam năm 2018 đạt 2,34 tỉ USD, tăng 7,6% so với 2017. Ba nhóm mặt hàng nhập khẩu quan trọng nhất bao gồm gỗ tròn, gỗ xẻ và các loại ván. Năm 2018, giá trị nhập khẩu 3 nhóm mặt hàng này khoảng 2,2 tỉ USD, chiếm gần 93,6% trong tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu tất cả các mặt hàng gỗ nhập vào Việt Nam trong cùng năm.

Thông điệp 3. Mặc dù đang tăng trưởng mạnh, ngành vẫn còn một số tồn tại cản trở sự phát triển bền vững của ngành

Các yếu tố tạo nên sự chưa bền vững của ngành thể hiện trên các khía cạnh về chủng loại mặt hàng xuất khẩu và nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào trong sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm gỗ nguyên liệu, đặc biệt là dăm gỗ, gỗ tròn, gỗ xẻ vẫn có tỉ trọng lớn, khoảng 2,19 tỉ USD, chiếm gần 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ. Năm 2018, lượng dăm gỗ xuất khẩu đạt gần 10,4 triệu tấn khô (BDT), kim ngạch đạt 1,34 tỉ USD. Cả lượng và kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh cho thấy các nỗ lực của ngành trong việc hạn chế xuất khẩu dăm, tạo nguồn nguyên liệu gỗ lớn cho chế biến còn hạn chế. Mặc dù lượng gỗ tròn và xẻ xuất khẩu đang giảm rất mạnh (lượng giảm 56% so với 2017), lượng xuất khẩu hiện vẫn còn tương đối lớn (khoảng 173.400 m3 gỗ xẻ xuất khẩu năm 2018). Việt Nam tiếp tục xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ trong bối cảnh ngành đang phải nhập khẩu gỗ nguyên liệu cho thấy các động lực trong nước vẫn chưa đủ mạnh để giữ lại nguồn nguyên liệu này phục vụ chế biến sâu. Ngoài ra, một số doanh nghiệp trong ngành vẫn đang tiếp tục xuất khẩu một số loài gỗ xẻ là gỗ rừng nhiệt đới được nhập khẩu từ các quốc gia có nền quản trị rừng yếu kém.

Thông điệp 4. Chính phủ Việt Nam ký FLEGT VPA với EU tạo cơ hội mở rộng xuất khẩu; tuy nhiên, xuất khẩu sẽ chỉ bền vững khi các rủi ro hiện tại về nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào trong chuỗi cung được loại bỏ hoàn toàn.  

Nhìn chung, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc đáp ứng tốt các quy định về tính hợp pháp của sản phẩm. Các mặt hàng gỗ của Việt Nam xuất vào các thị trường này thường được làm từ gỗ keo, cao su, là gỗ rừng trồng trong nước và từ gỗ nhập khẩu từ các nguồn cung sạch. Tuy nhiên, hiện còn tồn tại các rủi ro về nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào trong một số chuỗi cung xuất khẩu đi các thị trường khác, và đặc biệt trong chuỗi cung gỗ cho tiêu dùng nội địa. Các rủi ro này hình thành do việc duy trì sử dụng các loài gỗ tự nhiên, bao gồm một số loại gỗ quý được nhập khẩu từ các quốc gia có nền quản trị rừng yếu kém. Tuy lượng nhập khẩu các loài gỗ từ nguồn rủi ro giảm, trong 15 quốc gia cung gỗ tròn lớn nhất cho Việt Nam năm 2018 có 7 quốc gia có nền quản trị rừng yếu kém. Lượng cung từ 7 quốc gia này lên tới 0,94 triệu m3, tương đương 40% tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu vào Việt Nam trong năm. Ngoài ra, khoảng 64% lượng gỗ xẻ được xuất khẩu từ Việt Nam là các loài gỗ quý có nguồn gốc nhập khẩu từ nguồn rủi ro cao. Chính phủ Việt Nam ký FLEGT VPA thể hiện cam kết của Chính phủ loại bỏ hoàn toàn gỗ bất hợp pháp ra khỏi tất cả các chuỗi cung, bao gồm cả chuỗi cung xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Việc duy trì/sự hiện diện một số loài gỗ quý nhập khẩu từ các quốc gia có nền quản trị rừng yếu kém trong chuỗi cung tạo ra một số rủi ro cho ngành gỗ Việt Nam, thậm chí là mục tiêu chỉ trích của một số tổ chức môi trường toàn cầu. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của ngành.

Thông điệp 5. Cuộc chiến Mỹ- Trung  tạo ra những lợi thế cho Việt Nam thông qua việc mở rộng thị trường, tuy nhiên đã có bằng chứng về gian lận thương mại với Việt Nam là quốc gia trung chuyển, cũng như nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp từ sự bùng nổ làn sóng đầu tư, và điều này có thể dẫn đến các tác động tiêu cực đến ngành gỗ Việt Nam.

Năm 2018, viên nén, dăm gỗ và ván các loại là 3 nhóm mặt hàng thuộc nhóm gỗ nguyên liệu (HS 44) có tốc độ tăng trưởng về kim ngạch lớn nhất. Tăng trưởng của các mặt hàng sản phẩm gỗ, thuộc nhóm HS 94, là các mặt hàng có giá trị gia tăng cao nhỏ hơn rất nhiều, chỉ chiếm 15,5% trong tổng tăng trưởng của năm (so với 69% trong tổng tăng trưởng của viên nén, dăm gỗ và ván các loại). Mức tăng trưởng 15,5% này không cao hơn so với mức tăng trưởng các mặt hàng này giai đoạn 2016-2017. Điều này cho thấy tăng trưởng mạnh về kim ngạch năm 2018 chủ yếu là ở các mặt hàng thuộc nhóm gỗ nguyên liệu. Mô hình tăng trưởng hiện nay vẫn chủ yếu theo chiều rộng, thông qua việc mở rộng xuất khẩu sản phẩm thô chứ chưa phải tăng trưởng theo chiều sâu, đi vào các mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Tốc độ tăng trưởng mạnh nhất không phải là ở Mỹ (trừ ván dăm) hay EU, mà ở Hàn Quốc (chủ yếu do mặt hàng viên nén) và một vài thị trường khác.

Năm 2018, xuất khẩu gỗ dán, gỗ ghép từ Việt Nam sang Mỹ tăng đột biến. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang Mỹ tăng 270% so với năm 2017. Đã có một số bằng chứng cho thấy có sự gian lận thương mại, với các loại gỗ dán của Trung Quốc được nhập khẩu vào Việt Nam, sau đó xuất khẩu vào Mỹ với tên Việt Nam. Hiện Chính phủ Mỹ đang chính thức điều tra vụ việc này. Kết quả của điều tra có thể gây ra những tác động tiêu cực đến hình ảnh của ngành gỗ Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ở thị trường Mỹ năm 2018 không cao, cộng với cuộc điều tra về gian lận thương mại, lẩn tránh thuế của Chính phủ Mỹ đang diễn ra tại Việt Nam cho thấy cuộc chiến Mỹ - Trung chưa chắc đã đem lại lợi ích như một số người kỳ vọng. Cụ thể, khác với một số ý kiến cho rằng cuộc chiến Mỹ - Trung có lợi cho ngành gỗ Việt Nam, hiện vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng nào rằng cuộc chiến này đang và sẽ đem lại lợi ích lâu dài và bền vững cho ngành gỗ Việt Nam. Ngược lại, cuộc chiến này làm phát sinh một số rủi ro do gian lận thương mại, lẩn tránh thuế biến Việt Nam là quốc gia trung chuyển nhằm tránh thuế từ Mỹ. Một nguy cơ tiềm tàng tác động lớn hơn, lâu dài hơn là khả năng ngành gỗ Việt Nam phải chịu các cuộc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp, đi theo sau là mức thuế suất nhập khẩu cao ngất ngưởng và rủi ro hàng hóa bị kiểm soát chặt chẽ hơn khi nhập khẩu vào Mỹ.  

Để biết thông tin chi tiết của báo cáo, vui lòng tải toàn văn báo cáo.

Vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ khi sử dụng thông tin trong báo cáo

Gỗ Việt