Tái cấu trúc ngành gỗ: Lựa chọn đột phá của gỗ Việt Nam

02/10/2018 09:45

Ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ của nước ta đã có bước phát triển bứt phá trong vòng 2 thập kỷ vừa qua. Nhờ có sự ổn định về chính trị và kinh tế vĩ mô, nhờ môi trường đầu tư được cải thiện nhiều, nhờ có đội ngũ doanh nhân có ý chí khởi nghiệp mạnh mẽ và biết nắm bắt thời cuộc, và nhờ có lực lượng lao động cần cù, chăm chỉ, khéo tay trong giai đoạn dân số vàng, Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu sản phẩm gỗ đứng thứ 5 trên thể giới và thứ 2 ở châu Á.

 

 

 Không ai có thể phủ nhận sự phát triển khá bền vững, với tốc độ tăng trưởng trên 13%/năm, gần như liên tục trong suốt 20 năm qua của công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, dường như ngành công nghiệp chế biến gỗ của chúng ta đã tiệm cận một ngã ba đường, một lối rẽ, cần một sự lựa chọn mang tính đột phá. Câu hỏi đặt ra là chúng ta sẽ tiếp tục phát triển theo hướng chú trọng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, nghĩa là tăng khối lượng, theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào nhân công và nguyên liệu giá rẻ, hay là chuyển hướng tăng trưởng dựa nhiều hơn vào tăng năng suất, nghĩa là tăng giá trị được tạo ra trên một đơn vị nguyên liệu đầu vào, một ngày công lao động của người Việt và một đồng vốn đầu tư, hướng tới nhóm sản phẩm đồ gỗ có giá trị cao hơn? Các nước gần chúng ta như Đài Loan, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và gần đây là Trung Quốc, đã phải thu hẹp công nghiệp chế biến gỗ vì giá nhân công tăng. Trong thế giới phẳng ngày nay, nhân công và nguyên liệu giá rẻ chắc sẽ không phải là lợi thế, vì sự dịch chuyển sản xuất, vì thương mại tự do, vì sự cạnh tranh giữa các quốc gia và vì sự cạnh tranh giữa các ngành công nghiệp trong cùng một quốc gia. Chính phủ, chủ doanh nghiệp, người lao động… không ai mong muốn phát triển một ngành công nghiệp chế biến gỗ chỉ có thể trả lương cho công nhân bình quân ở mức 250 USD/tháng/ người như hiện nay. Tăng trưởng bền vững, bằng tăng năng suất, làm cho người lao động có thu nhập cao hơn, doanh nghiệp thu lợi nhuận nhiều hơn và đóng góp của ngành cho ngân sách cũng lớn hơn là điều chúng ta mong muốn. Mong muốn này đòi hỏi chúng ta phải tái cấu trúc ngành, kể cả tái cấu trúc việc cung ứng nguyên liệu. Xuất khẩu dăm gỗ để làm bột giấy là một minh chứng về sự cần thiết phải chuyển dịch và tái cấu trúc ngành gỗ. Hiện nay, dăm gỗ là mặt hàng tiêu thụ nhiều nguyên liệu nhất, chiếm khoảng một nửa lượng nguyên liệu ngành gỗ Việt Nam sử dụng. Trước năm 2010, mỗi năm chúng ta chỉ xuất khẩu 2 - 3 triệu tấn dăm.

Từ năm 2014 đến nay, do nguồn nguyên liệu gỗ nhỏ từ rừng trồng cây keo tăng mạnh và do giá xuất khẩu dăm tăng, chúng ta đang xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn dăm khô mỗi năm và trở thành nhà xuất khẩu dăm gỗ hàng đầu trong khu vực và thế giới, với trên 60% xuất khẩu sang Trung Quốc, phần còn lại sang Nhật Bản, Hàn Quốc và vài nước khác. Để xuất khẩu được 8 triệu tấn dăm gỗ, chúng ta phải sử dụng khoảng 16 triệu m3 gỗ quy tròn. Với giá dăm xuất khẩu như hiện nay, 121 USD/tấn xuất khẩu qua Trung Quốc và 124 USD/tấn qua Nhật Bản, chúng ta cũng chỉ thu được trên dưới 1 tỉ USD. Xuất khẩu dăm với giá đầu ra như vậy, doanh nghiệp dăm gỗ, dù có yêu quý nông dân đến mấy, cũng chỉ thu mua gỗ keo với giá 1 – 1,2 triệu đồng/tấn, tùy vào kích thước to nhỏ, gỗ non hay già. Sau khi nộp thuế xuất khẩu 2%, doanh nghiệp dăm cũng chỉ còn 1 – 2% lãi. Có những doanh nghiệp chỉ cầm cự hòa vốn. Trong khi đó, trong năm 2017, với mặt hàng ghế ngồi, chỉ sử dụng trên 3,2 triệu m3 gỗ nguyên liệu, tương đương 1/5 lượng gỗ băm dăm, chúng ta đã xuất khẩu được gần 1,2 tỉ USD. Dĩ nhiên, gỗ nguyên liệu băm dăm khác với gỗ làm ghế và không phải ai cũng làm được ghế xuất khẩu. Chúng ta không phủ nhận vai trò tạo động lực cho nông dân trồng rừng, có thu nhập ngắn ngày và nếu không có công nghiệp dăm gỗ đi trước thì chúng ta đã không thể có gần 3 triệu ha rừng trồng sản xuất như hiện nay. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có chấp nhận tiếp tục làm nhà cung cấp dăm giá rẻ nuôi sống công nghiệp giấy của nhiều nước hay không, liệu chúng ta có chấp nhận tiếp tục một nền lâm nghiệp trồng rừng với chu kỳ trồng – chặt 5 - 6 năm, thậm chí 4 - 5 năm như hiện nay hay không? Chuyên gia nước ngoài nhận xét Việt Nam đang làm “cropping” – làm “trồng trọt”, để bán rừng non như “bán lúa non” ở quy mô quốc gia, chứ không phải làm lâm nghiệp. Trên phạm vi toàn cầu, nhu cầu nguyên liệu giấy không tăng, thậm chí giảm, nhất là giấy in, vì internet và vì tái chế giấy, nếu chúng ta xuất khẩu nhiều dăm gỗ thì cũng tự làm khó mình. Nhìn tổng thể, trong nhiều năm qua, khối lượng nguyên liệu và kim ngạch xuất khẩu tăng đồng hành ở mức gần 13%, nghĩa là chúng ta đang phát triển công nghiệp gỗ bằng gia tăng đầu vào, theo chiều rộng, chứ không phải theo chiều sâu, bằng khoa học công nghệ, bằng mẫu mã và thương hiệu, bằng tay nghề tạo ra sự khác biệt của sản phẩm và không gian kiến trúc đẹp, và bằng kết nối trực tiếp với thị trường. Thực tế này đòi hỏi Chính phủ và doanh nghiệp phái tái cấu trúc cả đầu vào lẫn đầu ra của ngành công nghiệp gỗ, bao gồm cả việc cung cấp nguyên liệu gỗ trong dài hạn. Về cung ứng nguyên liệu gỗ, trong năm 2017, để xuất khẩu được gần 8 tỷ USD gỗ và lâm sản khác, chúng ta đã sử dụng gần 32 triệu m3 gỗ quy tròn, trong đó gỗ từ nguồn cung trong nước là 24 triệu m3, phần còn lại là nhập khẩu.

Đối với nguồn cung trong nước, trước hết chúng ta phải có quy hoạch vùng nguyên liệu dài hạn. Hiện chúng ta đang có 2,9 triệu ha rừng trồng là rừng sản xuất (trên 90% trồng keo). Nước ta đất chật, người đông, không thể và cũng không nên mở rộng thêm diễn tích trồng keo. Thái Lan, nước gần gũi với chúng ta, đã chuyển từ trồng rừng bạch đàn và keo, để có thu nhập ngắn ngày, sang trồng rừng tếch (chiếm trên 60% diễn tích rừng trồng) từ hơn 20 năm trước. Lựa chọn duy nhất của chúng ta chỉ có thể là tăng năng suất rừng keo để tăng sản lượng gỗ. Nhìn chung, chúng ta không cần phải quá lo lắng về sự thiếu hụt nguyên liệu gỗ, mặc dù, tùy thời điểm, giá gỗ nhập khẩu có thể cao thấp theo thời vụ và theo chủng loài gỗ. Và vì vậy, cung ứng nguyên liệu gỗ bền vững không đồng nghĩa với việc phát triển rừng trồng trong nước để tự túc gỗ nguyên liệu bằng mọi giá. Chỉ có điều chúng ta phải thiết lập quan hệ đối tác tốt đẹp với các nhà cung ứng gỗ ở các nước xuất khẩu và phải tổ chức lại hệ thống nhập khẩu của chúng ta để tăng khả năng mặc cả, chứ không phải là duy trì tới gần 2.500 đầu mối nhập khẩu gỗ như hiện nay. Với vị thế là trung tâm sản xuất đồ gỗ hàng đầu của thế giới và với mối quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với việc quản lý bền vững tài nguyên rừng, ngành công nghiệp chế biến gỗ và thương mại lâm sản của Việt Nam đã có độ mở rất cao và thực sự rất, rất dễ bị tổn thương. Các thị trường lớn của chúng ta như Mỹ, EU, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc… đều đã ban hành các đạo luật nghiêm cấm việc buôn bán đồ gỗ được sản xuất từ nguyên liệu khai thác bất hợp pháp. Đối với gỗ khai thác trong nước, ngoài chứng chỉ rừng FSC, chúng ta cần nhanh chóng xây dựng hệ thống chứng chỉ quản lý rừng bền vững của VN, với các bộ tiêu chuẩn và tiêu chí được quốc tế thừa nhận. Đối với gỗ nhập khẩu, đặc biệt là từ các quốc gia có độ rủi ro cao, chúng ta cần sớm xây dựng hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp như đã cam kết với EU. Ngoài chiến lược cung ứng nguyên liệu bền vững cho công nghiệp gỗ, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến năng lực tiếp thị, ở tầm quốc gia, của ngành gỗ nước ta. Hội chợ đồ gỗ xuất khẩu VIFA-EXPO được tổ chức mỗi năm một lần tại Trung tâm triển lãm và hội chợ Quận 7, TP HCM, đã và đang thu hút sự quan tâm của khách hàng đồ gỗ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, chỉ VIFA-EXPO không thôi là quá ít, khi chúng ta muốn VN trở thành điểm đến hấp dẫn của khách hàng nước ngoài và trở thành một trung tâm đồ gỗ lớn của thế giới.

                                                Ngô Sỹ Hoài

Phó tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam

GV - 104