Xúc tiến, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững

28/10/2024 07:48

Sáng 28/10, tại Nghệ An, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị xúc tiến liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉquản lý rừng bền vững giữa chủ rừng với doanh nghiệp chế biến gỗ rừng trồng sản xuất tại vùng Bắc Trung Bộ.

Khu vực Bắc Trung bộ đứng đầu cả nước về phát triển trồng rừng sản xuất gỗ lớn

Báo cáo về Thực trạng hợp tác, liên kết đầu tư phát triển trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững gắn với chế biến gỗ và thị trường lâm sản tại các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, ông Nguyễn Tuấn Hưng - Phòng chế biến và thương mại lâm sản – Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) – cho biết, theo số liệu công bố diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc, đến năm 2023, riêng vùng Bắc Trung bộ có diện tích đất trên 3,1 triệu ha, xếp thứ 2 cả nước (sau vùng Đông Bắc Bộ) về diện tích (chiếm 21,2%), trong đó rừng tự nhiên là 2,2 triệu ha và rừng trồng là gần 1 triệu ha.

Cùng với xu thế chung của cả nước, các tỉnh vùng Bắc Trung bộ đã triển khai hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và người dân tham gia trồng rừng sản xuất và đã hình thành các vùng nguyên liệu tập trung. Lượng gỗ khai thác rừng trồng hàng năm của toàn vùng đạt khoảng 5,3 triệu m3 (tương ứng với diện tích hơn 60 nghìn ha) chiếm gần 25% tổng sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tập trung cả nước.

Hiện nay, vùng Bắc Trung bộ có gần 105 nghìn ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, chiếm gần 20,4% diện tích rừng được cấp chứng chỉ trong cả nước, trong đó, rừng tự nhiên là 31 nghìn ha, rừng trồng gần 74 nghìn ha.

Về phát triển trồng rừng sản xuất gỗ lớn, đến nay, cả nước đã trồng và chuyển hoá được 445.480 ha rừng trồng gỗ lớn. Trong đó, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đạt 234.847 ha cao nhất trên toàn quốc, chiếm 52,7 %.

Hiện nay, các tỉnh vùng Bắc Trung bộ có 691 cơ sở/doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản chiếm 11,1% số doanh nghiệp của cả nước, chủ yếu phân bố tại 3 tỉnh có nguồn nguyên liệu rồi rào và thuận lợi giao thông là Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng Bình.

Có sự khác biệt rõ rệt theo các ngành hàng, các doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ có số lượng lớn nhất là 517 doanh nghiệp, chiếm 14,8% tiếp đó là số lượng doanh nghiệp chế biến ván thanh 72 doanh nghiệp chiếm 10,4%, đứng thứ 3 là cơ sở chế biến dăm gỗ 52 cơ sở chiếm 7,5%. Trong khi sản phẩm viên nén có tỷ trọng rất thấp có 5 doanh nghiệp ở các  tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế và Nghệ An.

Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng gỗ và sản phẩm gỗ của người dân địa phương, ngành chế biến gỗ các tỉnh vùng Bắc Trung bộ còn đóng góp một phần không nhỏ cho thành công xuất khẩu gỗ và lâm sản của cả nước. Doanh thu từ các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh gỗ và sản phẩm không chỉ đóng góp và sự phát triển kinh tế địa phương mà còn tạo ra nhiều công ăn việc làm cũng như cải thiện đời sống cho người dân địa phương.

Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ bình quân giai đoạn 2022 - 2024 của các tỉnh vùng Bắc Trung bộ ước đạt 806 triệu USD/năm, chiếm 5,6 % giá trị xuất khẩu của cả nước, đứng sau vùng Đông Nam Bộ, chiếm 64,2%, vùng Nam Trung Bộ, chiếm 11,6%, vùng Đồng Bằng Sông Hồng 9,9%, vùng Đông Bắc, 6,2%.

Triển khai thực hiện hiệu quả Kế hoạch số 1391/KH-BNN-TCLN về Phát triển kinh tế hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp giai đoạn 2014-2020 và Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ xây dựng được 13 mô hình hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp với các hộ dân đầu tư trồng gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, với diện tích được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững là 32.590 ha, chiếm gần 42,3% diện tích rừng gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững được hình thành từ hợp tác liên kết đầu tư của doanh nghiệp chế biến gỗ với chủ rừng của cả nước.

Vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế

Mặc dù, vùng Bắc Trung bộ đứng thứ 2 trong cả nước về thu hút doanh nghiệp hợp tác, liên kết với chủ rừng đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, chỉ sau vùng Đông Bắc, nhưng sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của vùng. Cụ thể, diện tích rừng gỗ lớn có chứng chỉ quản lý rừng bền vững do sự hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp và chủ rừng chỉ chiếm trên 3,5% diện tích rừng trồng của cả vùng, 44% diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững của cả vùng.

Việc phát triển hợp tác, liên kết, đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững tại vùng Bắc Trung Bộ vẫn còn những khó khăn, tồn tại nhất định. Theo đó, chưa có nhiều doanh nghiệp quan tâm hợp tác, liên kết với chủ rừng đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng nhận quản lý rừng bền vững và bao tiêu sản phẩm. Có thời điểm, giá bán gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững chênh không nhiều so với gỗ không có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, không tương xứng với chi phí bỏ ra  để làm chứng chỉ quản lý rừng bền vững;...

Bên cạnh đó là những khó khăn về đất đai và hạ tầng. Theo đó, diện tích đất đã giao cho các hộ gia đình nhỏ lẻ, khó tạo được vùng nguyên liệu lớn, gây khó cho việc thu mua và vận chuyển đến nơi chế biến.

Việc tích tụ đất đai để có quy mô đủ lớn cho sản xuất hàng hóa khó thực hiện do các quy định về hạn điền; người dân vẫn còn tư tưởng làm ăn nhỏ lẻ, thiếu tính liên kết lâu dài bền vững. Công tác quy hoạch lâm nghiệp còn hạn chế, việc giao đất vẫn còn tình trạng tranh chấp, chồng chéo gây khó khăn cho phát triển vùng quy hoạch phát triển trồng rừng sản xuất gỗ nguyên liệu.

Việc vay vốn từ các ngân hàng thủ tục còn khó khăn, thời gian cho vay ngắn, đòi hỏi phải có tài sản thế chấp nên các doanh nghiệp và hộ gia đình khó tiếp cận được nguồn vốn vay. Nguồn kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo các chính sách hiện hành chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Chính sách liên kết phát triển vùng nguyên liệu, thu mua lâm sản hiện nay chưa khuyến khích được doanh nghiệp và người dân tham gia.

Để thu hút hợp tác liên kết trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững tại khu vực này, các chuyên gia nhận định, cần rà soát, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đồng thời triển khai thực hiện hiệu quả các chính hỗ trợ tạo điều kiện, thu hút doanh nghiệp, chủ rừng tham gia vào hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Bên cạnh đó, kịp thời đánh giá, tổng kết các mô hình hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững hoạt động có hiệu quả, làm cơ sở để nhân rộng. Đẩy mạnh các hoạt động tổ chức hội nghị, hội chợ triển lãm,... nhằm quảng bá sản phẩm và xúc tiến các thành phần kinh tế tham gia hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ.

Gỗ Việt