Thị trường Hàn Quốc-Nhật Bản: Nhiều tiềm năng phát triển

01/07/2021 16:16
Thị trường Hàn Quốc-Nhật Bản: Nhiều tiềm năng phát triển

Là hai thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, cả Hàn Quốc và Nhật Bản đều cho thấy nhu cầu của họ với viên nén nhập khẩu là rất lớn trong năm 2021, dù cho hai thị trường này vẫn có những vấn đề cần giải quyết, nhưng các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải nắm được những biến động từ hai quốc gia này để có được kế hoạch sản xuất và thương mại hợp lý.

Hàn Quốc ổn định 

Là hai thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, cả Hàn Quốc và Nhật Bản đều cho thấy nhu cầu của họ với viên nén nhập khẩu là rất lớn trong năm 2021, dù cho hai thị trường này vẫn có những vấn đề cần giải quyết, nhưng các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải nắm được những biến động từ hai quốc gia này để có được kế hoạch sản xuất và thương mại hợp lý.

Soomin Lee, chuyên gia nghiên cứu lâm nghiệp tại NIFoS cảnh báo, giá cước vận chuyển cao hơn do lượng container khan hiếm trong thời gian tới sẽ dẫn đến giá dịch vụ tiện ích của Nhà nước và nhà máy điện độc lập cao hơn, điều này có thể làm giảm nhu cầu đối với viên nén gỗ nhập khẩu. Giá FOB viên nén gỗ giao tại cửa khẩu Việt Nam ở mức 97,50 USD/ tấn và giá CFR giao ngay tại Gwangyang ở mức 116,06 USD/ tấn, tạo ra sự chênh lệch lên tới 18,56 USD/tấn, tăng gần gấp 5 lần so với mức chênh lệch chỉ 3,94 USD/tấn vào tháng 11 năm 2020.

Hàn Quốc cũng sẽ có nhiều năng lực hơn để sản xuất sinh khối gỗ chưa sử dụng, đó là sinh khối rừng gỗ nội địa, nếu không sẽ không được sử dụng trong bất kỳ chức năng công nghiệp nào trong nước. Ông Lee ước tính rằng trong năm nay Hàn Quốc sẽ tăng thêm 300.000 tấn/năm công suất sản xuất sinh khối gỗ chưa sử dụng, nâng tổng công suất lên 700.000 tấn/năm. Giá sinh khối gỗ chưa sử dụng được các công ty thuộc sở hữu nhà nước tìm kiếm thông qua các cuộc đấu thầu vào những năm 2019- 2020 ổn định ở mức khoảng 350.000 won Hàn Quốc/tấn (tương đương 313,44 USD / tấn) trên cơ sở giao hàng đã trả thuế (ddp), so với giá trúng thầu của viên nén gỗ nhập khẩu vào khoảng giữa 130 USD/tấn trên cơ sở ddp trong cuộc đấu thầu của Công ty TNHH Điện phía Nam Hàn Quốc (Kospo) vào đầu năm. 

Nhưng lượng tín dụng năng lượng có thể tái tạo (RECs) mà các công ty thuộc sở hữu nhà nước có thể kiếm được từ việc cùng đốt với sinh khối gỗ chưa sử dụng là 1,5 REC/MWh, cao hơn ba lần so với số REC mà các công ty tiện ích có thể kiếm được từ việc đồng đốt với gỗ nhập khẩu viên nén. Điều này làm cho việc đồng đốt viên nén gỗ nhập khẩu kém cạnh tranh hơn và Simon Lee hy vọng các công ty thuộc sở hữu nhà nước sẽ sử dụng nhiều sinh khối gỗ chưa sử dụng hơn trong năm nay. Chính phủ Hàn Quốc cũng có kế hoạch sửa đổi chương trình khuyến khích REC trong năm nay, điều này có thể ảnh hưởng đến nhu cầu nhập khẩu viên nén gỗ của nước này. Chương trình khuyến khích REC được sửa đổi ba năm một lần. Nhưng dự báo nhu cầu nhập khẩu vẫn không thay đổi, nó có thể sẽ là hơn 3 triệu tấn viên nén gỗ trong năm 2021. Điều này là do nghĩa vụ tiêu chuẩn trong danh mục tái tạo của Hàn Quốc, mà các nhà máy điện có công suất trên 500MW phải đáp ứng, tăng từ 7pc vào năm 2020 lên 9pc trong năm nay, và cũng có thể có thêm nhu cầu từ các nhà máy nhiệt điện sinh khối mới bắt đầu hoạt động vào năm ngoái.

Nhật Bản có thay đổi

Trong khi nhu cầu sinh khối của Nhật Bản tiếp tục tăng trưởng mạnh vào năm 2020, những thay đổi chính sách sắp tới sẽ tác động đến dòng chảy thương mại, cung và cầu. Hawkins Wright ước tính nhu cầu viên nén gỗ Nhật Bản là 2,5 triệu tấn trong năm 2021 Phòng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) đã phê duyệt gần 8 GW công suất sinh khối gỗ theo biểu giá nhập khẩu (FiT), nhưng nhiều dự án chưa ở giai đoạn phát triển nâng cao. Những thay đổi tiềm năng đối với các tiêu chí bền vững ở Nhật Bản có thể có tác động đáng kể đến nguồn cung cấp vỏ hạt cọ (PSK). Liên quan đến chỉ số này, các hướng dẫn mới nhất của METI, nếu được thông qua, có thể có ảnh hưởng đáng kể đến tính khả dụng của PKS. Chứng nhận bền vững cho các đồn điền trồng dầu cọ ở Indonesia và Malaysia còn rất hạn chế. Do đó, nguồn PKS có thể chấp nhận được trở nên khó khăn và tốn kém. 

Số lượng hạn chế nguồn cung cấp PKS được chứng nhận có thể thúc đẩy người dùng cuối tìm kiếm các nguồn sinh khối thay thế và có thể thúc đẩy nhu cầu viên nén gỗ. Tuy nhiên, một số người dùng cuối có kế hoạch chỉ dựa vào PKS thì lại không có cơ sở hạ tầng và thiết bị, chẳng hạn như không có không gian lưu trữ có mái che, thiết bị để xử lý viên nén gỗ trắng. Do đó, có thể có cơ hội cho các sinh khối khác có thể được lưu trữ theo cách tương tự như PKS, chẳng hạn như dăm gỗ và viên nén gỗ đen. Nhật Bản là thị trường sinh khối công nghiệp phát triển nhanh nhất trên toàn cầu. Do đó, điều quan trọng hơn bao giờ hết là tất cả những người tham gia thị trường phải theo dõi xem những thay đổi tiềm năng nào có thể thay thế lượng và loại sinh khối mà nó tiêu thụ trong những năm tới.

Trần Toản (Gỗ Việt Số 134 Tháng 6 2021)