Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam: Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng

28/07/2016 06:39
Xuất khẩu dăm gỗ  của Việt Nam: Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng

Dăm gỗ là một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ngành chế biến gỗ của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt gần 1,2 tỉ USD, tương đương với 17% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng gỗ. Trong cùng năm này, tổng lượng dăm xuất khẩu đạt gần 8,1 triệu tấn dăm khô, tương đương với 16,2 triệu m3 gỗ nguyên liệu quy tròn. Kim ngạch và khối lượng xuất khẩu năm 2015 lớn hơn các con số này của các năm trước đó, thể hiện sự phát triển của ngành.

Tuy nhiên, số liệu thống kê xuất nhập khẩu từ nguồn Tổng cục Hải quan của Việt Nam về kim ngạch và lượng xuất khẩu dăm của năm 2016 cho thấy những tụt giảm nghiêm trọng trong xuất khẩu dăm và điều này đang làm phát sinh những lo ngại sâu sắc trong ngành dăm và các cơ quan quản lý ngành. Theo dữ liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu dăm 5 tháng đầu năm 2016 đạt 248 triệu USD, chỉ tương đương với 58% kim ngạch 5 tháng cùng kỳ của năm 2015 (430 triệu USD). Lượng dăm xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2016 đạt 1,8 triệu tấn, bằng 61% tổng lượng dăm xuất khẩu trong cùng kỳ của năm 2015. Nếu từ nay đến cuối 2016 xu hướng xuất khẩu này không thay đổi, ngành chế biến và xuất khẩu dăm của Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với vô vàn khó khăn và kim ngạch xuất khẩu cả năm 2016 sẽ chỉ đạt ở mức trên dưới 600 triệu USD, chỉ bằng khoảng một nửa kim ngạch năm 2015; lượng dăm xuất khẩu cả năm sẽ chỉ đạt trên dưới 7 triệu tấn, tương đương với khoảng 60% tổng lượng xuất khẩu của 2015. Thông tin từ các doanh nghiệp xuất khẩu cho thấy lượng dăm tồn trong nước hiện rất lớn. Tụt giảm nghiêm trọng lượng dăm gỗ xuất khẩu đang và sẽ tiếp tục đem lại những tác động tiêu cực không phải chỉ riêng cho các doanh nghiệp trực tiếp tham gia chế biến xuất khẩu, mà còn tác động đến hàng trăm nghìn hộ gia đình, bao gồm nhiều hộ dân nghèo, là nguồn cung nguyên liệu đầu vào cho chế biến dăm và hàng trăm nghìn lao động khác tham gia các khâu của chuỗi cung ứng. Tụt giảm về xuất khẩu dăm cũng tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành gỗ, gây ảnh hưởng đến ngân sách quốc gia.

Kể từ năm 2012 Việt Nam đã thay thế vị trí của Úc trên bản đồ cung dăm thế giới, trở thành quốc gia xuất khẩu dăm lớn nhất toàn cầu. Ngoài Úc, các nước có nguồn cung dăm lớn, hiện đang cạnh tranh với Việt Nam bao gồm Thái Lan, Indonesia và Chile. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là ba quốc gia nhập khẩu dăm quan trọng nhất của Việt Nam, chiếm trên 90% tổng kim ngạch và lượng xuất khẩu hàng năm, trong đó thị trường Trung Quốc chiếm tỉ trọng lớn nhất, khoảng 60% trong tổng kim ngạch và lượng dăm xuất khẩu của Việt Nam. 

Báo cáo này cho rằng sự tụt giảm lượng dăm xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2016 có nhiều nguyên nhân, trong đó những nguyên nhân cơ bản nhất là do thay đổi trong cơ cấu nhập khẩu dăm tại thị trường Trung Quốc. Số liệu thống kê của Hải Quan Trung Quốc cho thấy kể từ đầu năm 2016 nguồn dăm gỗ của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường này dần được thay thế bởi nguồn cung từ Úc và Thái Lan. Tại Trung Quốc, Úc đã lấy lại vị trí dẫn đầu của mình về cung dăm cho Trung Quốc. Bên cạnh đó, nguồn cung từ Thái Lan cũng tăng từ đó làm co hẹp thị phần của nguồn cung của Việt Nam tại thị trường này. Báo cáo này cho rằng sở dĩ thị phần dăm gỗ Việt Nam tại Trung Quốc co lại là do có sự cạnh tranh rất lớn với nguồn cung từ Úc và Thái Lan, đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng. Cụ thể, chất lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang bị mất kiểm soát, hiện đang có dấu hiệu đi xuống. Điều này đã và đang gây ra những tác động tiêu cực cho ngành dăm, gây giảm giá xuất khẩu và co hẹp thị trường tiêu thụ, đặc biệt tại Trung Quốc.

Đến nay, đối với các cơ quan quản lý xuất khẩu, dăm vẫn được coi là xuất khẩu nguyên liệu thô, không tạo được giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý và một số ý kiến từ ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu cho rằng sự phát triển của ngành dăm làm mất nguồn cung gỗ nguyên liệu cho ngành chế biến đồ gỗ, kéo dài sự lệ thuộc của ngành chế biến đồ gỗ vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, bao gồm cả việc nhập khẩu từ một số nguồn có rủi ro cao, gây tổn hại đến hình ảnh của ngành chế biến gỗ. Các quan điểm này đã được thể hiện trong định hướng của Chính phủ, bao gồm một số cơ chế chính sách nhằm hạn chế sản xuất và xuất khẩu dăm.  

Trong nỗ lực nhằm hạn chế xuất khẩu dăm, Chính phủ Việt Nam áp dụng mức thuế xuất khẩu 2% bắt đầu kể từ đầu năm 2016. Tuy nhiên, áp dụng mức thuế này trong bối cảnh nguồn cung dư thừa và thị phần tại thị trường xuất khẩu, đặc biệt tại thị trường Trung Quốc đang giảm sút làm cho ngành chế biến dăm xuất khẩu của Việt Nam đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn. Mức thuế xuất khẩu 2% tương đương với mức tăng 2,5-2,8 USD/tấn dăm trong cơ cấu giá thành dăm xuất khẩu. Thị phần co hẹp và mức giá xuất khẩu giảm buộc các doanh nghiệp chế biến dăm hoặc phải giảm giá thu mua nguyên liệu gỗ đầu vào, chủ yếu từ các hộ gia đình hoặc phải chấp nhận cắt giảm lợi nhuận nhằm duy trì thị trường.

Từ khía cạnh của nguồn cung nguyên liệu gỗ, hộ gia đình trồng rừng phản ứng với thay đổi của thị trường theo cách khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện sinh kế cụ thể của hộ. Nhiều hộ gia đình có nguồn sinh kế không lệ thuộc nhiều vào các diện tích rừng trồng quyết định giữ lại rừng của mình, đợi cơ hội tăng giá. Nhiều hộ khác không có nguồn sinh kế thay thế bắt buộc phải bán rừng, chấp nhận mức giảm 30-40% về lợi ích kinh tế so với năm 2015.

Những khó khăn hiện tại của ngành chế biến dăm xuất khẩu của Việt Nam không chỉ đơn thuần là về biến động cung-cầu của thị trường tiêu thụ mà còn do những vấn đề nội tại của ngành dăm, đặc biệt có liên quan đến phát triển nóng, phát triển ngoài quy hoạch, chạy theo thị trường và không kiểm soát về chất lượng, hiện nay đang diễn ra tại một số địa phương, đặc biệt là các cơ sở chế biến quy mô nhỏ. Thông báo 76/TB-UBND tỉnh Thanh Hóa ngày 17 tháng 5 năm 2016 phản ánh rõ nét các khía cạnh này, trong đó nêu rõ: “Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 42 cơ sở sản xuất dăm gỗ, trong đó chỉ có 11 cơ sở được chấp thuận sản xuất, với tổng công suất 330.000 tấn/năm, trong khi công suất băm dăm gỗ thực tế của các cơ sở đã lên tới 729.000 tấn/năm, vượt 2,2 lần so với công suất cho phép; đa số các cơ sở sản xuất dăm gỗ đều chưa có phương án đầu tư dài hạn từ khâu trồng, thu mua nguyên liệu đến khâu chế biến […]; tình trạng thiếu nguyên liệu đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua, tranh bán gây mất trật tự xã hội (1). Phát triển không kiểm soát, chạy theo lợi nhuận, không quan tâm đến chất lượng sản phẩm tại các địa phương này đã và đang tác động tiêu cực đến hình ảnh của toàn ngành dăm Việt Nam, làm giảm lòng tin của nhà nhập khẩu, giảm thị phần xuất khẩu, tạo cơ hội cho một số nhà nhập khẩu khác ép giá dăm của Việt Nam. Các yếu tố này thể hiện tính không bền vững của ngành chế biến dăm xuất khẩu. 

Báo cáo chỉ ra rằng mặc dù chiến lược của Chính phủ trong việc hạn chế xuất khẩu dăm, tạo nguồn gỗ nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ là hoàn toàn đúng đắn, thực hiện chiến lược thông qua giải pháp áp dụng 2% mức thuế xuất khẩu như hiện nay cần được kiểm chứng về mặt thực tiễn về hiệu quả của chính sách này. Khảo sát tại một số địa phương cho thấy tính đa dạng trong thực trạng sản xuất và xuất khẩu dăm hiện nay và các chính sách thuế hiện tại và trong tương lai sẽ có những tác động không đồng đều đến các sơ sở chế biến và các hộ trồng rừng tại các địa phương. Tại các vùng như Bắc Trung Bộ, các cơ sở chế biến gỗ hầu như chưa phát triển và chế biến dăm là giải pháp duy nhất cho nguồn gỗ rừng trồng đầu ra của hộ gia đình. Đối với một số địa phương khác như Phú Thọ, Tuyên Quang nơi sẵn có các cơ sở chế biến thay thế dăm, nguồn cung đầu vào cho dăm là các sản phẩm phụ của quá trình chế biến, chiếm 30-40% trong tổng nguồn cung gỗ từ rừng trồng tại các nơi này. Trong bối cảnh thiếu vắng các cơ sở chế biến thay thế cho dăm (ví dụ xưởng xẻ, bóc), và với nguồn nguyên liệu dăm được chế biến từ các sản phẩm phụ của chế biến gỗ, áp dụng chính sách thuế nhằm hạn chế đầu ra của dăm sẽ không đạt được mục tiêu tạo rừng gỗ lớn, thậm chí còn gây lãng phí trong việc sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng.

Báo cáo kiến nghị rằng trước khi đưa ra những giải pháp can thiệp về thuế cần có những đánh giá sâu và toàn diện về thực trạng của ngành chế biến xuất khẩu dăm hiện nay của Việt Nam trong toàn bộ chuỗi cung ứng, trong đó cần đánh giá các yếu tố về các loại hình và quy mô của doanh nghiệp và động lực của các loại hình này, khác nhau giữa các vùng nguyên liệu, hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển các loại hình chế biến sản phẩm thay dăm cũng như các điều kiện tiếp cận thị trường đối với các loại hình sản phẩm đó. Bên cạnh đó, cần có những đánh giá khách quan về thực trạng của hộ gia đình trồng rừng, nhằm xác định các yếu tố nội tại của hộ (ví dụ vốn, lao động, trình độ canh tác), cũng nhưng các yếu tố bên ngoài (tiếp cận tín dụng, tiếp cận nguồn giống, khoa học công nghệ) có tác động trực tiếp đến quyết định của hộ gia đình trong việc sử dụng sản phẩm gỗ rừng trồng để làm dăm hay các sản phẩm khác. Chính sách, bao gồm cả chính sách thuế xuất khẩu hiện tại và trong tương lai có mục tiêu tạo nguồn gỗ lớn, làm nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu sẽ không thể phát huy được hiệu quả nếu không được dựa trên nền tảng là từ kết quả của các đánh giá này. 

Để biết thông tin chi tiết, vui lòng tải toàn văn báo cáo./.

Gỗ Việt